Tượng
Đồng Đen Một Chân
Chương
1: CÁCH ĐÂY MỘT TRĂM NĂM ...VÀ TRƯỚC ĐÓ NỮA...
Lúc ấy chưa có cái hồ nước lớn như bây giờ. Cả mặt hồ như
hôm nay ta nhìn thấy, vào thời đó là một lèn đá vôi cao ngất như một
tháp chùa khổng lồ. Một hang động khoan thẳng vào chính giữa ruột núi,
tường đá phẳng lì, nhũ vôi muôn hình muôn vẻ long lanh như kho bạc. Núi
đá vôi này có tên gọi là núi Linh Linh, cách xóm Linh Linh hiện nay
chừng ba chục cây số đường chim bay. Tuy vậy, vào cái thời đó chim chóc
cũng không dám bay một mình vì rừng cây điệp trùng. Những tán lim cao
ngất ngưỡng. Những đồi lau lách ngút ngàn. Cọp và beo rừng sống trà
trộn với nhau. Vượn hú suốt đêm dài và những tiếng mang tác hoảng loạn.
Nhưng nếu chỉ là sự hoang lạnh nguyên sơ ấy thôi
cũng chưa thật đáng sợ. Người ta quả quyết rằng, cái lèn đá cao chọc
trời như toà tháp ấy là chốn linh thiêng khủng khiếp .Bất kì ai có việc
đi qua chốn ấy cũng phải cúi đầu, còng lưng xuống như mang gông. Nếu ai
đó vô ý ngẩng lên liếc trộm nhìn lèn lập tức học máu tươi ra mà chết.
Cả một vùng hoang lạnh âm u này có chung cái tên :
vùng Thuỷ Thuỷ. Vào cái thời ấy, chủ nhân vùng này là những người dân
mặc áo bằng vỏ cây, đào củ mài bằng những thanh đá mài nhòn. Những
người dân miền xuôi lên rừng đốt than, lấy củi, lần đầu tiên phát hiện
ra nhóm cư dân này đã hét toáng lên : Người rừng nguyên thuỷ ! Họ còn
thêu dệt lên vô vàn những huyền thoại quái dị về loại người này, nào là
lông lá kín cả mặt mày, móng tay móng chân dài như lưỡi dao nhọn, vân
vân. Không ai có thể ngờ tới điều này. Cái nhóm người ăn lông ở lỗ ấy,
đã một thời là chủ nhân suốt một vùng đồng bằng ven biển, đã từng mặc
quần áo bằng vải, đã biết gieo trồng lúa nước, đã từng có trong tay
hàng túi vàng và đồng đen.
Cái thời huy hoàng ấy như bóng mặt trời đã tắt.
Hàng trăm năm nay họ lại trở về với bóng đêm nguyên thuỷ. Họ trút bỏ
hết áo quần, vải vóc, vứt lại những cuốc rựa dao kéo, truyền đời cho
con cháu mối hận giống nòi và những nuối tiếc âm thầm cứ chôn chặt vào
tâm khảm. Chuyện là thế này.
Trong khi cuộc sống của những xóm làng dân bản địa
đang âm thầm như vậy thì vào một năm nọ, tự nhiên có những toán người
lang thang đi dọc theo theo mép biển từ hướng Bắc tiến vào. Có những
tốp đi thẳng vào miệt trong. Có những tốp dừng lại. Những toán người ấy
như những bầy chim trú rét bu bám vào các khe nước nấp kín dưới các
chân đồi. Thế là làng mạc mọc lên. Thoạt đầu cuộc sống hãy còn vui vẻ
lắm. Người ít, đất rộng, làm gì đến nỗi phải chen chúc nhau. Hai bên đã
học được tiếng của nhau, đã cùng đến vui chung những buổi lễ làng, đã
bày kinh nghiệm cho nhau cách trỉa bắp và đập đất vãi lúa.
Dân bản địa có một nhà thờ tổ tiên bằng gỗ lim,
lợp tranh. Trên bàn thờ ngay chính gian giữa đặt một pho tượng đồng đen
to bằng cột nhà lớn. Tượng đúc hình một người đàn bà, hai chân đứng mở
ra, hai tay chống nạnh. Già làng giải thích rằng, đó là tượng Mẹ Đất,
người đã sinh ra giống nòi này. Cái dáng đứng kia là Mẹ đang truyền cho
con cách làm nhà để ở, hai khuỷu tay quành ra là hai thanh kèo, còn hai
chân là hai cột trụ. Nhưng người dân di cư không quan tâm lắm đến cái
thế đứng chạng chân kia, họ chỉ chăm hăm vào cái màu đen bóng nhầy của
pho tượng và nuốt những cục nước bọt ừng ực. Thế rồi... vào một đêm nọ,
bỗng dưng pho tượng dồng đen trên bàn thờ tổ của người Rạc không còn
đứng chạng chân, chống nạnh nữa mà lại nằm lăn kềnh ra . Sáng ra, người
ta phát hiện thấy tượng Mẹ Đất chỉ còn có một chân.
Sự hoảng hốt bao trùm lên khắp làng bản. Rồi những
người già có bộ óc minh mẫn nhất đã đoán ra, chắc chắn những người lạ
đã mò vào nhà thờ tổ, bẻ một chân tượng. Nhưng tại sao lại bẻ một chân
mà không khuân đi cả pho tượng? Có thể vì pho tượng lớn và nặng quá. Mà
cũng có thể những kẻ lạ chưa tin hẳn đây là tượng đồng đen, họ bẻ một
cái chân để mang đi thử.
Thế là một cuộc truy quét được thực hiện . Hàng
chục thầy mo cỡ cao thủ của dân Rạc được tung ra. Những người dân di cư
đột nhiên thay nhau lăn đùng ra ốm. Thoạt đầu là sốt váng đầu, rụng
tóc, sau đó là mê sảng, phát điên, nói luyên thuyên. Các phép thư của
các thầy mo không nhằm giết người mà chủ yếu là để cho bọn lạ phải điên
loạn lên để nói ra kẻ đã bẻ chân tượng. Các trưởng họ của dân di cư
cũng nhận ra mối nguy hiểm đang đe doạ mình. Thế là, những cuộc va chạm
bắt đầu xảy ra. Lúc đầu còn vụng lén, ám muội, càng về sau càng gay gắt
công khai . Dân di cư có giáo mác, tên đồng, dân bản địa có thuốc độc
của các phép thư. Người chết khá nhiều mà cái chân của Mẹ Đất vẫn biệt
tăm mất tích. Năm này qua năm khác, cả hai bên đều tự thấy rằng nếu cứ
tiếp tục kéo dài cuộc hiềm khích này thì chẳng bao lâu nữa cả hai đều
bị triệt hết giống nòi. Vì thế họ quyết định giảng hoà. Một cuộc rượu
được tổ chức linh đình...
Chao ôi là những cuộc rượu ! Loài người
đã từng tin vào nó như tin vào một điềm lành ! Các già làng và trưởng
họ của hai bên đã đến uống rượu. Trong cuộc rượu, người bản địa vì thật
bụng nên ăn no uống say. Còn người di cư thì phần sợ bị thư thuốc độc,
phần nữa đã có chủ đích sẵn nên chỉ nhấm nháp lấy lệ. Thế rồi sau đó,
tất cả những già làng dân bản địa trong cơn say tuý luý đều được bỏ vào
những chiếc rọ đan sẵn, dưới đáy rọ lại buộc thêm một hòn đá to và lăn
xuống các bàu nước. Sau khi tiêu diệt được nhóm già làng, không đợi tan
tiệc, những người dân di cư thắng trận đã ầm ầm giáo mác, kẻ xông thẳng
vào nhà thờ tổ của dân bản địa, kẻ tràn tới các làng bản của người Rạc.
Lửa bốc cháy rừng rực. Pho tượng đồng đen bị cướp. Những ngôi nhà mang
dáng đứng của Mẹ Đất bị cháy trụi. Người bản địa bỏ chạy nháo nhác, bỏ
đồng bằng lên vùng lau lách, bỏ vùng lau lách chạy lên giữa ruột rừng
ngàn, rồi bỏ cả rừng ngàn mà chui tít lên tận cùng các lèn đá trên đỉnh
Trường Sơn .
Chuyện đó cách đây chừng trên hai trăm năm hoặc xa
hơn nữa...
Còn bây giờ đang kể về lèn đá vôi Linh Linh, cách
đây một trăm năm, khi người Rạc đã thành loại người mặc quần vỏ cây và
đào củ mài bằng những thỏi đá. Khi đó bỗng có một người miền xuôi lọt
lên vùng Thuỷ Thuỷ này và câu chuyện pho tượng đồng đen được khơi dậy
trong nỗi nhớ tiếc vô vọng của con cháu người Rạc.
l
Người miền xuôi có mặt ở cái vùng Sơn động Thuỷ
Thuỷ cách đây một trăm năm ấy là một người con gái chừng mười sáu tuổi.
Những thợ săn mặc quần bằng vỏ cây trong một cuộc săn đuổi con hoãng từ
trên núi cao xuống tận lèn đá vôi thì con hoãng biến mất , thay vào đó
là một người con gái bị trói chặt vào một tảng đá ngồi chính giữa cửa
hang. Cô gái bận một bộ quần áo trắng tinh và khuôn mặt cũng trắng dã
như một xác chết. Đám thợ săn tin rằng, Mẹ Đất đã bắt con hoãng phải
hoá kiếp không cho phép người Rạc lỡ đà chạy về xuôi. Họ cởi trói cho
cô gái, không ai hay biết tiếng miền xuôi. Họ dẫn cô gái như dẫn con
mồi ngược đường núi về Sơn động. Nơi đó, tộc trưởng Pung , người già
nhất bản, đã sống một trăm hai mươi bốn mùa rẫy, biết rất rõ cái thứ
tiếng uốn lượn của kẻ xuôi. ông cũng là một thầy mo cao thủ nhất vùng
này, đủ sức bắt mọi kẻ lạ mặt phải nói ra điều bí mật trong bụng.
Tộc trưởng Pung có cái đầu trọc lóc không hề sót
lại một sợi tóc nào để có thể gợi cho người ta liên tưởng rằng xa xưa
kia nơi đó vốn là chỗ sản sinh của tóc. Khuôn mặt ông nhăn nhó, dăn dúm
đến mức không phân biệt nỗi đâu là hố mắt, hốc mũi, gò má. Một thân
hình khô đét ngồi bất động trên mặt đá phẳng lì đặt phía trong cùng của
hang động. Cô gái miền xuôi sau một cơn chết giấc, dần dần tỉnh lại và
tưởng nhầm những kẻ bắt cô đã khuân luôn được pho tượng đồng đen về đặt
ở chỗ kia. Cô hét lên, lao tới. Nhưng khuôn mặt nhăn nheo và đen sì kia
bất giác cử động. Hai tròng mắt lồi ra. Có một luồng khí ngột ngạt phả
tới khiến cho cô xây xẩm mặt mày và ngồi bệt xuống đất. Từ giữa cái đám
nhăn nheo kia, một lỗ rộng đột ngột mở ra đen ngòm như hang động. Và
tiếng nói phát ra từ hốc đen ấy, nghe lơ lớ và quái đản:
- Tên mi ? Im lặng. Tai cô gái ù ù. Cô không tin vào hai tiếng vừa nghe
được. Lẽ nào cái pho tượng gớm ghiếc kia lại nói được tiếng người, mà
lại là tiếng miền xuôi ! - Tên mi ? Vẫn im lặng. Đám thợ săn đứng quanh
có vẻ sốt ruột. Những bàn chân nhấc lên hạ xuống thình thịch, những mũi
đá nhọn trong tay cựa quậy.
- Ai đưa mi lên đây ?
- .....
Ai trói mi ở hang ?
- .....
Mi không biết nói à ?
- .....
Người rừng ít kiên nhẫn hơn người miền
xuôi. Thế nên chỉ sau vài câu hỏi không được trả lời, khuôn mặt tộc
trưởng Pung đột ngột xám lại. Một luồng ám khí toả ra. Hai con mắt lồi
hẳn ra găm một cái nhìn như hai mũi tên khoan thẳng vào mắt cô gái. Đây
là phép thư khui tỉ, mà theo các nhà sinh học thời nay gọi là phép thôi
miên.
Cô gái bỗng thấy u tối. Cả một không
gian mờ ảo, chập chờn, đầu đột nhiên hâm hấp nóng, tim đập rộn ràng. Cô
bỗng sợ hãi như đang đi bập bềnh trên gờ của miệng núi. Trong cơn bàng
hoàng ấy, cô đột nhiên nhớ lại, hầu như không sót một điểm nào, thậm
chí nhớ cả những chuyện mà trước đây cô không hề bận tâm đến.
Đấy là vì sao cha cô lại bán cô cho tên
cướp để đổi lấy pho tượng ? Và vì sao khi đã dắt cô ra khỏi nhà rồi,
tên cướp lại quay lại và ngay trong đêm ấy hắn lại ôm pho tượng trong
tay. Cô mường tượng thấy cha cô đã gặp tai hoạ. Rồi chỉ trong ngày hôm
đó, có một toán lính phi ngựa ập vào rừng cây nơi toán cướp đang ẩn
náu. Thế là chạy. Tên tướng cướp bỏ cả đồng bọn mà chạy. Hắn khoẻ như
một con trâu mộng. Một tay hắn ôm khư khư pho tượng đồng đen được trùm
bằng tấm nhiễu đỏ. Một tay hắn túm chặt lấy tay cô mà kéo đi xoành
xoạch. Cô không nhìn rõ pho tượng, chỉ thấy một khối đỏ lòm, phía dưới
lòi ra một cái chân đen thui. Cái vật trông gớm ghiếc như một thai nhi
bị vứt bỏ của ngưòi đàn bà chửa hoang nào đó ! Thế mà cha cô đã đổi cả
tấm thân cô, đứa con gái mười sáu tuổi, đẹp nhất vùng đầm lác để lấy nó.
Không có một tên tay chân nào bám được
tên cướp. Trong túi áo nó chỉ có mấy mẩu bánh sắn khô. Nó chạy suốt
chiều suốt đêm cả ngày hôm sau nữa. Tiếng ngựa của quan quân vẫn hí
vang phía dưới rừng lau lách. Đến lèn đá vôi thì tên tướng kiệt sức.
Hắn đã trói cô vào cửa hang rồi ôm cái bọc đỏ kia đi vào phía trong .
Chừng một giờ sau hắn quay ra, nhìn cô nói :
- Từ nay em sẽ là thần giữ của cho ta. Hãy chung thuỷ nếu như không
muốn bị trừng phạt như cha cô !
Thế rồi hắn thất thểu bước đi . Cô chẳng
thể nào nhận ra bước đi của hắn vì sinh lực cô đã kiệt. Cô rũ xuống
trong nỗi khiếp đảm kinh hoàng...
Khuôn mặt xám xịt của tộc trưởng Pung
bỗng giãn ra, hai con ngươi thu lại. Cô gái chợt choàng tỉnh như vừa đi
qua một giấc chiêm bao. Tộc trưởng Pung từ từ đứng dậy, nhìn ra cửa
động rồi bỗng rú lên một tiếng thét quái dị Hi mi ti hi....phiệt lấy cô
tâu... phiệt lung lung .
Cả đám thợ săn đột ngột quỳ xuống , mắt
ngước lên vị tộc trưởng . Nhưng tộc trưởng Pung đã quay lại phía cô gái
và nói bằng cái giọng lơ lớ miền xuôi :
- Thế là
ta đã tìm thấy tổ tông.... Lạy Mẹ Đất, Người vẫn muốn chúng con từ bỏ
hang động để về xuôi làm cái nhà theo dáng của Mẹ cho nên Mẹ đã giúp ta
đọc được mọi ý nghĩ của con bé này. Nhưng Người đã mất một chân, cái
vài nhà không thể trồng một cột... Con hiểu ý mẹ rồi.... Nào các con!
Ta đi thôi...
Tộc trưởng Pung chỉ tay xuống
phía có lèn đá vôi nơi vừa phát hiện ra cô gái bị trói. Thế là đám thợ
săn rùng rùng chạy đi, hét vang những câu quái đản, họ dắt theo người
con gái lúc ấy đang bàng hoàng khiếp đảm, đi vào sâu trong lèn đá Linh
Linh!
Cuộc tìm kiếm kéo dài suốt cả
ngày. Bao nhiêu nhũ đá đẹp đều bị đập nát. Những hốc nước trong veo bị
đào bới, nước cuộn lên một màu đục như sữa. Cả cái hang động đẹp như
cảnh tiên phút chốc tan tành xơ xác. Nhưng vẫn không tìm thấy hình hài
Mẹ Đất. Cô gái bị trói chặt vào cửa hang , và toán người mặc quần áo vỏ
cây ấy rùng rùng ra về cùng với những câu rủa quái dị.
Ngày hôm sau đám thợ săn lại
đến. Cuộc đào bới, đập phá lại tiếp tục. Ngày hôm đó họ rút về sớm hơn
hôm trước sau khi đã ném lại cho cô gái một miếng thịt nai được nướng
sém. Những ngày sau, các cuộc tìm kiếm trễ nãi dần và những miếng thịt
quẵng cho cô cũng bé dần cho đến một ngày nọ thì không ai đến nữa. Cô
gái ngất xỉu. Người hâm hấp sốt. Sên vắt bu bám từ chân lên tận ngực,
cổ.
May sao lúc đó, cứ như có phép
thần tiên, một người đàn ông xuất hiện. Đấy là tên đồ đệ của tướng
cướp. Tên anh ta là Hi . Hi đã lần dò tìm theo vết chân của tướng cướp
không phải vì sự trung thành mà vì cái bọc nhiễu đỏ đầy hấp dẫn ấy. Hi
cởi trói cho cô gái , cho cô ăn bánh gạo. Cô gái tỉnh dần. Nhận ra
người miền xuôi, dù biết đó là kẻ cướp, cô cũng thấy bồi hồi như từ địa
ngục gặp người trần gian... Cô vừa khóc vừa kể. Hi chăm chú lắng nghe,
sau đó anh lặng lẽ vào hang một mình. Bằng con mắt của tên ăn trộm lành
nghề, cộng với trí óc khôn ngoan miền xuôi, sau chừng một giờ tìm kiếm,
Hi đã phát hiện ra chỗ dấu tượng được đào bằng mũi kiếm sắc khác hẳn
với các vệt đào bằng thỏi đá của người rừng.
Đêm đó họ trốn khỏi lèn đá
Linh Linh, đạp tắt rừng lau về tít dưới đồng bằng. Họ không dám về xóm
cũ bởi sợ người rừng đuổi theo, lại sợ tên tướng cướp mò về, rồi sợ cả
toán quan quân đang săn đuổi. Họ đi chếch về phía nam. Sau bảy ngày đói
rã rời, họ gặp một vạt đất bên bàu nước đầy rêu đen. Hi dừng lại. Cô
gái cũng mệt xỉu lăn xuống đất thiếp đi. Khi cô tỉnh dậy thì pho tượng
đã không còn trong tay Hi nữa. Mãi về sau này, cô vẫn âm thầm tự trách
mình yếu đuối, chưa được một lần nhìn thấy mặt pho tượng. Cái duy nhất
mà cô nhìn thấy là một cục đỏ lòm và phía cuối lòi ra một cái chân đen
thui thủi.
Một chiếc lều lợp bằng lá được
dựng lên nằm cạnh bàu nước đầy rêu đen. Đấy là ngôi nhà đầu tiên của
cái làng Linh Linh sau này.
[trang
1] [trang
2] [trang
3] [trang
4]